Sau rắc rối đêm qua, bá tước lật giở lại những sai lầm của quản lý. Như việc ông ta chèn ép người làm công trong tửu trang, ăn bớt nguyên liệu và lợi nhuận. Dù những việc này ngài bá ước đều biết, nhưng từ ban đầu nó chỉ là những con số hao hụt không đáng kể để ngài có thể bận tâm, ngài thừa biết dưới chân những kẻ trên cao luôn sẽ có không ít người quẩn quanh tìm tòi lợi lộc, bám víu như những con đỉa đói.
Có lẽ ông quản lý không đến mức như những gì ngài hình dung về một con đỉa đói nhưng cũng không thể phủ nhận rằng từ những việc nhỏ đó ông ta đã có gan phạm đến những thứ lớn hơn và gây ra một sai lầm nặng nề.
Ngài bá tước im lặng nghe lời biện bạch và kêu khóc của ông ta. Chiếc mũ của ngài lúc này đã được bỏ xuống, đặt bên cạnh ống bút lông. Ngài bá tước vẫn rũ mắt nhìn tờ giấy trong tay, thái độ thờ ơ của ngài khiến lời than khóc tuôn ra từ miệng quản lý dần nhỏ lại, sau đó im bặt. Ông ta không dám nói năng gì nữa, dường như đã nhận ra chủ nhân của tửu trang này thật sự tương xứng với lời đồn, là một kẻ không dễ chọc.
Ông ta đã làm việc cho tửu trang được vài năm, người tuyển ban đầu không phải bá tước, vì vậy mà báo cáo hằng năm đều đưa cho người phụ trách phía trên chứ không thể gặp mặt bá tước một cách trực tiếp. Vậy nên số lần ông ta gặp ngài còn chưa đầy năm ngón tay.
Trong ấn tượng của ông ta, bá tước Sullivan là một kẻ biệt lập kỳ quái, không thích ra ngoài, không thích giao du, tuy nổi tiếng khắc nghiệt và lạnh lùng nhưng với ông ta mà nói, cái ông ta cảm nhận được chỉ là một vị quý tộc có tiếng mà không có miếng, mắt mờ, thích giả vờ thanh cao. Chẳng phải mấy chuyện ông ta làm trong suốt vài năm qua đều suôn sẻ trót lọt đó sao? Chỉ có mắt mờ mới không thấy.
Có một lần ông ta đã nói như vậy với người bạn của mình ở một buổi tiệc trong trấn. Sau đó ông ta còn chép miệng bảo rằng: “Mà như vậy mới tốt, tiện cho tôi muốn làm gì thì làm.”
Có điều, ngài bá tước mắt không mờ, quản gia của ngài cũng không, chỉ là một tửu trang nhỏ ở ngoại ô mà thôi, thiệt hại vẫn chưa có gì đáng nói, cùng lắm thì ngài xem nó như một ít lợi lộc rỉ ra để giữ chân những kẻ làm công cho mình.
Nhưng lần này ông ta phạm sai lầm lớn rồi. Một trong những quy định nghiêm ngặt dành cho người làm công của các tửu trang dưới tay bá tước đó là tuyệt đối không được dẫn người ngoài vào hầm rượu, thậm chí những kẻ có cấp bậc làm công thấp hơn như người quét dọn cũng không được bước vào khi chưa có sự cho phép.
Bầu không khí trong phòng nhanh chóng trở nên nặng nề khi quản lý không dám nói năng nữa, mà ngài bá tước cũng không hề hé lời.
Sự lạnh lẽo sắp làm lửa trong lò sưởi tắt lịm. Chỉ có người lái xe vẫn mang vẻ mặt thư thả vốn có, nghiêm túc thêm củi vào lò, sau đó đứng yên vị phía sau ngài bá tước, dường như không hề bị ảnh hưởng bởi tâm trạng của hai con người có giai cấp cách biệt trong căn phòng này.
Thật lâu sau, ngài bá tước như đã đọc xong tờ giấy trong tay, ngài nhấc lấy cây bút lông trên bàn, chấm mực, ký tên vào dòng cuối cùng của trang giấy rồi đưa nó cho người lái xe bên cạnh. Cả quá trình không hề hé miệng.
Người lái xe bước thẳng đến chỗ quản lý, đưa nó cho ông ta rồi thay lời chủ nhân của mình: “Từ hôm nay hãy thu dọn hành lý, bá tước cho ông ba ngày để dọn khỏi tửu trang.”
Quản lý nghe những lời này chỉ cảm thấy như rơi vào hầm băng. Ông ta không thể tin được mà nhìn chằm chằm tờ giấy. Bên trên kể hết các tội trạng ông ta phạm phải, từ những lỗi nhỏ mà ông ta lén lút làm và cho rằng sẽ không ai hay biết, đến những sai lầm lớn không thể chối cãi, ngoài ra còn có những nhấn mạnh khi vi phạm khế ước lao động ban đầu mà ông ta đã ký, giờ thì nó trở thành lý do chính đáng để bá tước tống cổ ông khỏi nơi này.
Ông ta đờ người ra, chỉ biết trơ mắt nhìn ngài bá tước cầm theo tờ khế ước ban đầu của cả hai, ngay trước mặt mình mà ném vào lò sưởi đốt cháy.
Ngài lạnh giọng buông lời: “Thời gian qua ta không cảnh cáo ông không có nghĩa là mắt ta mù.”
Lửa đốt giấy thành tro, quản lý lúc này mới hối hận, ông ta nhào lên ôm lấy chân bá tước khóc lóc.
“Không, đừng. Xin ngài đừng đuổi tôi đi, vợ và con tôi còn cần có tôi nuôi sống mà.” Ông ta chảy cả nước mắt và nước mũi, lần đầu tiên phát hoảng như vậy, nhưng đáng tiếc, đã muộn rồi, chính do ông ta khinh thường chủ nhân của nơi này trước, sẽ không có sự mềm lòng nào dành cho ông ta.
Người lái xe kéo ông ta ra khỏi bá tước: “Nếu ông biết như vậy vì sao dám dây vào cờ bạc. Tự làm phải tự chịu. Nếu ông còn chưa tự hiểu ra, ngài bá tước sẽ không chỉ đơn giản đuổi ông đi thôi đâu.”
“Cái gì?” Quản lý mờ mịt.
Người lái xe chỉ mỉm cười hỏi: “Hay ông muốn ghi thêm giấy nợ bồi thường thiệt hại cho phần bị cháy của tửu trang và những lần cắt xén lợi nhuận?”
Một lời này đủ để ông ta cụp đuôi chạy thẳng ra cửa mà không dám ở lại cầu xin thêm gì nữa. Lời ban nãy nói rằng đây cũng chỉ là một tửu trang nhỏ ở ngoại ô, nhưng đó là với bá tước, còn với kẻ như quản lý mà nói, số rượu quý bị hủy, hầm rượu bị cháy dẫn lan tới cánh đồng trồng nho của tửu trang gần như đã làm hỏng 1/3 diện tích, muốn bồi thường có lẽ ngay cả đời con ông ta cũng phải làm công phục dịch cho bá tước mất.
Căn phòng lại trở về bầu không khí yên tĩnh vốn có.
Ngài bá tước bước đến bên cửa sổ, có điều suy nghĩ mà nhìn về phía góc tường ngoài cổng. Thật ra, những gì mà quản lý kêu khóc ban nãy đều không lọt vào tai ngài, trong lòng ngài vẫn còn chút đoái hoài đối với bóng dáng nhỏ đã nhìn thấy ở bên ngoài tửu trang.
Ngài tự hỏi, mùi hương đến từ đó ư? Đó là thứ mùi thơm ngọt nhất mà ngài từng ngửi thấy.
Từ cửa sổ thư phòng của tửu trang có thể nhìn rõ toàn cảnh bên ngoài, lại bởi vì nó nằm ở tầng trên mà góc nhìn càng thêm bao quát. Chỉ thấy cậu bé gầy gò vẫn còn cuộn người nơi đó, nó sắp bị tuyết phủ kín.
Ở thời đại này, những kẻ nghèo hèn, không có nơi nương tựa thông thường sẽ chết đi như thế mà không mấy ai bận tâm cho lắm.
Người lái xe nhìn bóng lưng cao lớn thẳng tắp của chủ nhân, cũng không kìm được mà hướng theo tầm mắt ngài quan sát.
“A… Cậu bé kia… hình như ngất rồi?”
Bá tước hơi cau mày, chợt mở miệng: “Đưa cậu nhóc vào.”
Người lái xe sửng sốt, nhưng cũng không phải không ngờ đến, anh ta nhanh chóng ra ngoài gọi người. Chẳng mấy chốc, từ cửa sổ thư phòng có thể thấy được một vài nữ hầu đội tuyết chạy ra ngoài đưa cậu bé đã ngất lịm kia vào trong tửu trang.
…
Rufus cho rằng cậu nhất định sẽ chết, chết vì giá lạnh, vì đói khát, vì vết thương trên người.
Nhiều ngày trước đó, cậu chật vật chạy trốn khỏi bọn buôn người, khó khăn lắm mới đến được nơi này thì sức cũng đã cạn, vết thương đau buốt khiến cậu phát sốt. Trời lại đổ tuyết, nếu không tìm được chỗ che chắn tạm thời cậu chắc chắn sẽ không qua khỏi.
Giữa đồng không mông quạnh, cậu may mắn phát hiện ra tửu trang ở phía xa, muốn xin người giúp đỡ nhưng đáng tiếc vừa đến cửa đã bị đuổi đi, cậu không còn sức đi xa nữa, chỉ có thể tìm một góc tường hơi chắn gió một chút mà rúc vào.
Cậu nhớ lại quãng thời gian ấm áp của mình bên cha mẹ, khi đó họ vẫn còn sống, chỉ là những ngày tháng ấy trôi đi rất nhanh, người chú thân thiết ngày nào lại thay đổi, tìm cách chiếm lấy những gì mà cha mẹ cậu để lại sau khi mất, còn bán cậu cho bọn buôn người.
Cậu đã bị đưa đi thật xa, vượt qua biên giới, dù thoát khỏi thì cũng không biết cách để trở về.
Giữa cơn sốt mê man chập chờn, cậu nghe thấy tiếng xe đỗ lại, có tiếng người nói chuyện gần đó. Dù thể trạng đã rơi xuống mức thấp nhất nhưng cậu vẫn theo bản năng mà cảnh giác, đây là thứ giúp cậu có thể sống sót trong những ngày qua. Cậu cố mở đôi mắt nặng trĩu ra nhìn xung quanh, lờ mờ nhận thấy những người ở phía bên kia đều thật cao lớn, không rõ là người như thế nào, tốt hay xấu, vì vậy cậu cắn môi không dám cầu cứu, chỉ càng thêm co người lại, vừa muốn giấu mình, vừa muốn đỡ lạnh hơn.
Rufus không biết mình mất ý thức từ bao giờ, ngay cả khi cậu không muốn buông xuôi cũng không thể chống lại cái giá lạnh, nó làm đầu óc cậu tê cứng, cơn buồn ngủ nhanh chóng xoa dịu sự khó chịu và mệt mỏi.
Cậu cảm thấy, có lẽ giấc ngủ này sẽ đưa cậu đi gặp cha mẹ mình một cách an yên.
Thế nhưng, chờ khi mở mắt ra lần nữa, cảnh tượng xung quanh khiến cậu phải sửng sốt một phen.
Cậu đang nằm trên một chiếc giường mềm mại, không phải phiến đá lạnh cứng ngoài trời tuyết, xung quanh là những vật dụng thường ngày bằng gỗ, có bàn ghế, có một ít bánh mì và thịt xông khói trên bàn, còn có cả lò sưởi – nhờ nó mà bầu không khí trong căn phòng mới ấm áp thế này.
Rufus ngây người mấy giây thì kinh hãi bật dậy khỏi giường, mặc kệ đau đớn trên cơ thể và choáng váng do cơn sốt chưa lui, cậu hoảng sợ kéo chăn muốn tìm một góc trốn vào.
Cậu lại bị bắt nữa rồi ư? Làm sao bây giờ?
…
“Ngài David, cậu bé kia đã tỉnh rồi.”
Một nữ hầu tìm đến người lái xe của bá tước, bẩm báo lại.
David nhướng mày: “Đã biết, tôi sẽ nói cho bá tước. Cô chuẩn bị một ít thức ăn cho cậu bé đi.”
Nữ hầu đáp vâng rồi lui ra ngoài.
David cũng nhanh chóng bỏ lại công việc trên tay, tìm đến chỗ chủ nhân của mình.
Bá tước Sullivan ở lại tửu trang ba ngày để xử lý những hỗn độn nơi đây, ba ngày này cậu bé mà ngài ra lệnh cứu giúp vẫn luôn hôn mê bất tỉnh, bây giờ tỉnh lại hẳn phải hỏi ý ngài xem nên làm gì với cậu bé.
Bá tước đang ngồi trong thư phòng làm việc, nghe thấy tiếng gõ cửa thì lạnh lùng đáp: “Vào đi!”
David đẩy cửa bước vào, mỉm cười nói: “Chủ nhân, cậu bé kia…”
“Tỉnh?” Chưa nói hết lời, bá tước đã cắt ngang.
David hơi khựng lại rồi gật đầu: “Vâng.”
Anh cho rằng ngài sẽ như những lần khác, dặn dò người hầu thu xếp phòng ở cho cậu ta, sau đó chờ khi cậu ta khỏe hơn sẽ lệnh cho anh đến hỏi chuyện, xem cậu ta thân phận là gì, nhà ở đâu, tại sao lại đến đây? Nếu cậu bé này không có ai nương tựa, ngài có thể sẽ để cậu ở lại làm việc ở tửu trang, tựa như năm đó ngài từng cứu anh vậy.
Có một sự thật là, đa số người hầu và làm công cho ngài dù là ở dinh thự, tửu trang, hay quán rượu đều là những người được ngài cứu giúp.
Thế nhưng lần này lại khác, bá tước đóng quyển sổ ghi chép trong tay lại, đứng dậy nói: “Ta đến xem.”
David bất ngờ, nhưng ngay sau đó lập tức khom lưng cúi người: “Vâng, mời ngài theo tôi.”
Kể từ khi cậu bé nọ được đưa vào tửu trang, khu vực của người hầu phía tây – nơi mà cậu bé nằm nghỉ vẫn luôn phảng phất một thứ mùi ngọt ngào hấp dẫn bá tước đến gần.
Có điều ngài không vội vã như vậy, chỉ muốn chờ cậu ta tỉnh lại mới tìm đến.
David không rõ lần này bá tước có ý định gì, anh ta cũng không muốn phỏng đoán ý nghĩ của chủ nhân nên im lặng bước đi, dẫn đường từ thư phòng đến phòng bếp, sau đó rẽ sang khu vực của người hầu.
…
Rufus trốn vào giữa góc giường và tủ, cậu không dám chạy ra ngoài khi chưa hiểu rõ sự tình. Nếu bên ngoài có kẻ xấu, bọn chúng sẽ cảm thấy cậu không ngoan, đánh đập cậu thì với tình trạng cơ thể cậu hiện giờ đó thật sự không phải chuyện tốt. Phỏng đoán ấy khiến cậu không dám làm bừa, vậy nên khi nữ hầu đến đưa thêm thức ăn nóng là một bát cháo cá chỉ thấy cậu bé vừa được nhặt kia đang co rụt người trong góc, dùng đôi mắt đen láy nhìn chằm chằm mình đầy phòng bị.
“Đừng lo lắng, cậu bé, em được chủ nhân của chúng tôi cứu đấy.”
Cứu ư?
Rufus ngờ ngợ, nhưng vẫn không dám thả lỏng.
Nữ hầu đặt bát cháo lên bàn, cũng lấy bánh mì trên bàn cắt thành từng lát mỏng đặt kế bên: “Nên ăn một chút gì đó cho khỏe đi, có lẽ ít phút nữa ngài David sẽ đến sắp xếp cho em.”
Nói rồi nữ hầu cười một cái, trước khi ra khỏi phòng, cô đắn đo nhìn vòng băng gạc được quấn trên đầu và cánh tay cậu, nhớ lại vết thương của cậu nhóc mà mấy hôm nay mình đã giúp cậu đắp thuốc, bèn nhẹ giọng nói: “Nơi này an toàn, sẽ không ai làm hại em được đâu.”
Bỏ lại một câu như vậy rốt cuộc cũng thành công khiến Rufus thả lỏng hơn. Cậu chớp đôi mắt to nhìn cánh cửa đã đóng lại, sau một hồi do dự, cơn đói khiến cậu không thể không thỏa hiệp, mùi cháo thơm lừng làm cậu không chịu nổi nữa.
Rufus e dè đi đến cạnh bàn ăn, nhìn tô cháo đầy ắp, có mùi cá thơm ngon, còn có một ít hành xanh đẹp mắt, cậu cắn cắn môi, ôm lấy tô cháo đưa lên miệng húp nhẹ một ngụm.
Ngon quá.
Kể từ khi cha mẹ ra đi, đã thật lâu rồi cậu mới được ăn đàng hoàng như vậy.
Rufus bất giác chảy nước mắt, xé bánh mì chấm vào cháo vừa ăn vừa khóc thút thít.
Cậu nghĩ, có lẽ chủ nhân nơi này thật sự là người tốt, cậu được cứu chứ không phải bị kẻ ác bắt lại lần nữa.
Căn phòng này cực kỳ ấm áp, còn thoang thoảng mùi lúa mạch và men, ghế ngồi cũng có đệm lót, cậu thắc mắc không biết chủ nhân nơi này là người như thế nào, nhưng bất kể ra sao đi nữa thì cũng là ân nhân của cậu. Nếu có thể, cậu muốn ở lại nơi này, làm người hầu cũng được, phục dịch cũng được, để trả ơn cho ân nhân…
Trong lúc mải mê suy nghĩ, Rufus không hay biết bên ngoài cánh cửa có hai người đứng đó từ lúc nào.
David không lên tiếng cắt ngang dòng suy nghĩ của chủ nhân, anh biết ngài bá tước đang thầm quan sát cậu bé, để xem khi ở một mình cậu bé có biểu hiện như thế nào.
Đó là một cậu nhóc với mái tóc đỏ kỳ lạ, màu tóc này rất ít xuất hiện ở đây, có lẽ là người nước ngoài, thân thể gầy còm, mảnh mai tới mức David cho rằng chỉ một cơn gió tuyết thổi qua là có thể cuốn cậu theo. Nhưng cậu lại có một đôi mắt rất đẹp, đen lay láy, tròn và trong trẻo, dù là ít phút trước đó vẫn còn mang theo vẻ đề phòng.
Ngài bá tước đứng yên bên ngoài, nhìn cậu nhóc mang đôi mắt đen ầng ậng nước của mình, vừa húp cháo vừa ngó quanh quất quan sát căn phòng, thỉnh thoảng từ bên trong còn truyền ra tiếng sụt sịt của cậu, có vẻ như đã khóc một trận không kìm được.
Ngược lại với tâm tình thấp thỏm của người trong phòng, ngài bá tước lúc này chỉ cảm thấy quãng thời gian mấy trăm năm mình chờ đợi đã kết thúc rồi, người đó ở đây, người định mệnh mà cha ngài từng dùng lời này miêu tả: “Kẻ mang dòng máu có thể khiến ta thèm muốn, khóa lấy sự chú ý của ta giữa muôn trùng sự vật, ấy chính là bạn đời ta cần tìm.”
Giờ phút này, đến gần hơn mới biết, cảm giác bị hấp dẫn thì ra là như vậy.
Thế nhưng sau đó tiếng sụt sịt lại truyền ra khiến bá tước cau mày.
Em ấy khóc ư?
Ngài đẩy cửa, nâng chân bước vào.
Add comment